Cơ quan chủ quản vào cuộc quá chậm
PV: Thưa ông, với số lượng học sinh bỏ học khá đông, nhưng vẫn có ý kiến cho rằng thực tế đó “không bất bình thường”, thậm chí còn khẳng định tỉ lệ này đã giảm so với các năm trước. Từng là người đứng đầu Bộ GD- ĐT, ý kiến của ông về vấn đề này thế nào?
GS, VS Phạm Minh Hạc: Cần phải hiểu, học sinh là trung tâm của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cho dù chúng ta có xây nhiều trường lớp, tuyển nhiều thầy cô giáo nhưng không có học sinh tới trường thì đó là điều hết sức không bình thường. Trên thế giới, tiêu chí đầu tiên để đánh giá ngành giáo dục chính là số lượng học sinh tới trường. Vì vậy, nếu có ai đó công tác trong ngành GD- ĐT cho rằng học sinh bỏ học không phải chuyện mới, có thể coi đó là sự vô trách nhiệm. Chúng ta có thể dùng từ Bình tâm để xem xét vấn đề này, chứ không thể nói rằng hãy cứ An tâm đi.
Đó là chưa kể, những ngày qua dư luận cả nước biết đến tình trạng học sinh bỏ học, phần lớn là nhờ tiếng nói của báo chí và các cơ quan truyền thông. Trong đó mở đầu là câu chuyện bỏ học của học sinh huyện Thạch Thành (Thanh Hoá) trên nhiều tờ báo in và báo mạng. Tiếp đến là các địa phương Sơn La, An Giang, Nghệ An…Tình trạng học sinh bỏ học diễn ra ngay từ đầu năm học (tháng 9, 10- 2007) nhưng tới tận tháng 1- 2008 Bộ GD- ĐT mới đưa ý tưởng về Đề tài nghiên cứu giải pháp chống học sinh bỏ học (nhân cuộc họp tổng kết năm của một Viện lớn thuộc Bộ GD- ĐT). Và tới đầu tháng 3-2008 Bộ mới có họp báo công bố về vấn đề này, theo tôi đó là sự vào cuộc quá chậm trễ. Cùng với đó, số liệu thống kê của Bộ GD- ĐT với hơn 119 ngàn học sinh các cấp bỏ học cũng có rất ít căn cứ. Trên thực tế con số này chắc phải lớn hơn nhiều. Chỉ tính riêng tỉnh Nghệ An đã có khoảng 1, 3 vạn em bỏ học, An Giang khoảng 2, 2 vạn em…Tôi thực sự thấy buồn vì so với thời chúng tôi, giờ đây trang thiết bị làm việc hiện đại hơn nhiều. Trường nào, sở nào cũng có máy tính, rồi nối mạng internet, nhưng việc tập hợp và cập nhật số liệu học sinh bỏ học cũng không làm nổi.
Mặc dù rất hoan nghênh Bộ GD- ĐT đã đưa ra 9 giải pháp cấp thiết (đã đề cập tại cuộc họp giao ban ngành) giúp học sinh trở lại trường. Nhưng chỉ tiếc từ thời điểm này cho đến cuối năm học, ngành giáo dục phải tập trung cao độ cho thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH- CĐ với hàng núi công việc. Rõ ràng muốn cứu vãn tình thế, ngành GD- ĐT phải bắt tay ngay từ đầu năm học, không thể đến lúc này mới vội vàng tìm giải pháp. Như vậy là quá muộn.
Phải quản lý thế nào để các em thấy có tương lai
PV: Theo ông, nguyên nhân chính của tình trạng học sinh bỏ học hàng loạt là gì?
GS, VS Phạm Minh Hạc: Tôi đồng ý với tất cả các nguyên nhân mà lãnh đạo Bộ GD- ĐT, cũng như dư luận đã đề cập thời gian qua (kinh tế kém phát triển, đói nghèo, dân trí thấp, học phí nhiều, chương trình học nặng, sách giáo khoa nhiều sai sót…) nhưng theo tôi, đó không phải là nguyên nhân cụ thể. Tôi cũng không thích cách đổ lỗi theo kiểu đi tìm đâu là nguyên nhân chủ quan, hay khách quan.
Hãy thử đề cập tới yếu tố đói nghèo. Từ nhiều thập kỷ nay, nói tới sự học của đồng bào dân tộc chúng ta đã lý giải bằng nguyên nhân họ coi trọng sự no bụng hơn là sự no chữ. Cho đến giờ khi kinh tế đã phát triển, cho dù nơi này, nơi kia vẫn chưa đủ ăn, nhưng nểu đổ cho đói nghèo thì không đúng. Hoặc thế hệ chúng tôi, nhiều người sinh ra ở nông thôn, lại trải qua 2 cuộc chiến tranh. Cuộc sống lúc đó rất đói, rất nghèo nhưng biết bao người vẫn học hành thành tài? Hay nhìn ở góc độ chương trình học nặng, sách giáo khoa quá tải… cũng không đủ để kết luận, bởi từ năm 2001 đến nay, chương trình SGK lớp 1 đến lớp 9 vẫn ổn định, không có sự thay đổi nào quá lớn.
Do đó nguyên nhân thật xác đáng là cả phụ huynh và học sinh đều đang không nhìn thấy tương lai. Bởi tâm lý lo lắng cho tương lai (cho dù tương lai gần hay xa) là đặc trưng rõ nét nhất của người Việt Nam.
Theo tôi, cuộc vận động “2 không” về bản chất rất tốt, nội dung cũng rất hay, nhưng cách làm chưa ổn. Từ cách làm này đã tác động không nhỏ tới tâm lý chung của học sinh là học xong cũng chả để làm gì. Vì “phanh” lại bệnh thành tích một cách quá gấp, nên kết thúc 12 năm đèn sách, nhiều em không có nổi tấm bằng tốt nghiệp THPT. Thậm chí, có những thầy cô giáo và cả cán bộ ngành GD- ĐT khi bắt tay triển khai cuộc vận động “2 không” ở địa phương mình đã “doạ” học sinh: dốt thì đừng đi học nữa, thà ở nhà còn hơn. Chính vì phấp phỏng với tương lai, lo học xong cấp 1 không biết có lên được cấp 2, học xong cấp 2 có theo được cấp 3 hay không, hoặc học xong rồi có việc làm gì không… mà học sinh và cả phụ huynh cũng đồng thuận với việc con em mình nghỉ học. Rõ ràng cần phải xem lại cách quản lý của ngành GD- ĐT nói chung và Bộ GD- ĐT nói riêng.
Phải bật tín hiệu SOS ngang với thiên tai, hoả hoạn, lũ lụt...
PV: Được biết Bộ GD- ĐT đã thành lập một tiểu ban và đang bàn giải pháp để khắc phục tình trạng học sinh bỏ học. Theo ông, đâu là biện pháp cấp bách và giải pháp cụ thể ra sao?
GS, VS Phạm Minh Hạc: Những năm 80 của thời kỳ trước cũng xảy ra tình trạng học sinh và giáo viên bỏ trường bỏ lớp. Lúc đó nguyên nhân lớn nhất là cả đất nước chúng ta đang trong giai đoạn “đêm trứơc đổi mới”, những ai phải sống trong thời điểm đó mới cảm nhận hết được cái khổ, cái nghèo. Khi ấy, cách làm và khẩu hiệu mà ngành GD- ĐT đặt ra chỉ gói gọn trong 8 chữ: giữ vững, củng cố, ổn định, phát triển. Và sự ổn định đó đã kéo dài cho tới tận đầu những năm 2000.
Ở vào thời điểm này, khi nhiều địa phương đã tự tìm biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, Bộ GD- ĐT mới bàn đến việc này, tôi xin được nhắc lại đó là sự triển khai quá chậm. Dẫu vậy, muộn cũng còn hơn không. Ngay lập tức phải coi tình trạng học sinh bỏ học chẳng khác nào tín hiệu SOS, ngang với thiên tai, hoả hoạn, lũ lụt.
Do đó, cần thiết phải có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và địa phương trong việc đưa học sinh trở lại trường. Với kinh nghiệm công tác trong ngành lâu năm, tôi khẳng định ở đâu Cấp uỷ đảng quan tâm tới vấn đề này, ở đó công tác giáo dục, phổ cập phát triển tốt. Nếu từng xã, phường thông qua uỷ ban, mặt trận cùng phối hợp thuyết phục, chắc chắn người dân sẽ thấy được lợi ích của việc cho con em đi học. Tiếp đó phải nhìn nhận lại vấn đề học phí, đặc biệt là đối với người nghèo. Với rất nhiều khoản đóng góp như hiện nay (có những địa phương lên tới 62 khoản), chắc chắn người nghèo không thể và cũng không muốn đến trường.
Cùng với đó, một nghĩa cử rất hay mà tôi nhiệt liệt hoan nghênh, đó là từ những năm 90 (cho đến tận thời điểm này), lãnh đạo 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận đã có chính sách trợ giúp mỗi học sinh nghèo 10 kg gạo/tháng để các em có thể đến trường. Mỗi lần được lĩnh gạo như thế, nhiều phụ huynh đã khóc vì cảm động. Tôi vẫn ao ước, giá như cách làm này được nhân rộng hơn nữa ở nhiều địa phương trên cả nước, bởi đây chính là một quyết định cực kỳ thông minh, sáng tạo, giúp cho người đi học nhìn thấy được tương lai.
Xin cảm ơn ông!
Thu Hương
School@net (Theo Báo Lao Động & Xã hội, Số 35, ra ngày 20 tháng 3)
|