Nhưng sang năm 1943, Mỹ và đồng minh chuyển sang phản công, chiếm lại những vị trí đã mất. Tới đầu năm 1944, trong khi Nhật phải tập trung lực lượng bảo vệ phần lục đĩa khiến cho lực lượng ở khu vực Thái Bình Dương bị mỏng đi. Như để bảo vệ Philippine, Indonesia và các đảo trong khu vực, Nhật có 700 máy bay chiến đấu, 7 tàu thiếp giáp hạm, 6 tàu sân bay, 19 tàu tuần dương hạm, 33 tàu phòng lôi, 45 tàu ngầm. Trong khi đó, Mỹ có gấp ba lần về tàu sân bay và không quân, một lần rưỡi về lực lượng tác chiến trên bộ. Lúc này, lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương gồm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất gồm Hạm đội 3, Hạm đội 5 và một quân đoàn lính thuỷ đánh bộ do Đô đốc Nimis chỉ huy, bộ phận thứ hai gồm Hạm đội 7, tập đoàn quân 6 và tập đoàn không quân 5 do Mc Acthur (MácActơ) chỉ huy, có tập đoàn quân số một của Australia phối thuộc. Chỉ riêng lực lượng máy bay trên các tàu sân bay Mỹ có tới trên 100 chiếc. Bốn hoạt động chính trong Trận chiến vịnh Leyte. 1: Trận chiến biển Sibuyan, 2: Trận chiến eo biển Surigao, 3: Trận chiến mũi Engaño, 4: Trận chiến ngoài khơi Samar. Ngày 20-10-1944, Mỹ chính thức tổ chức đổ bộ lên đảo Leyte (Lâytơ) nằm giữa đảo Luzon và Minđanao. Mỹ đã huy động vào trận đánh này tới 30 tàu sân bay, 20 tàu tuần dương hạm, 104 tàu phóng lôi, 47 tàu ngầm và hàng trăm tàu quét mìn, tàu đổ bộ, vận tải. Mỹ sử dụng trên 30 tàu sân bay có tới 1280 máy bay tiêm kích. Lực lượng đổ bộ gồm tập đoàn quân 6 và 3 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ. Suốt một tuần trước khi tiến hành chiến dịch này, Mỹ cho máy bay liên tục quấy rối ném bom các sân bay của Nhật tại Đài Loan, Đông Dương, Singapore. Phía Nhật lúc này ở Philippine chỉ có 12 tàu sân bay, 19 tàu tuần dương hạm, 33 tàu khu trục và khoảng 500 máy bay. Ngay sau khi đoán được ý đồ của Mỹ đổ bộ vào Leyte, hai hạm đội Nhật do hai phó Đô đốc Curita và Nisimura chỉ huy từ Inđônêxia đã lên đường tiến sang Philippine trợ chiến. Nhưng hai hạm đội này đã bị tàu ngầm Mỹ và máy bay Mỹ tiến công. Bốn trong số 100 tàu tuần dương hạm của Curita bị đắm, trên đường đi. ở phía Bắc hạm đội Nhật do Osawa (Ôzaoa) chỉ huy cũng được điều xuống giúp việc bảo vệ Philippine thì khi tới phía Đông Bắc đảo Luzon đã gặp Hạm đội 3 của Mỹ chặn đánh. Hai tàu tuần dương hạm của Nhật bị đắm cùng 3 tàu sân bay. Một hạm đội Nhật khác do phó Đô đốc Sima chỉ huy từ Đài Loan xuống, may mắn đã tới được vịnh Leyte nhưng bị cô lập và phải rút lui sau khi bị đánh đắm 7 tàu tuần dương hạm. Đây là trận thuỷ chiến lớn nhất ở khu vực Thái Bình Dương trong thế chiến II. Chỉ 24 giờ hải quân Nhật tan tác. Lực lượng đổ bộ của Mỹ với 58 tàu vận tải, 290 tàu đổ bộ với trên 300 tàu chiến các loại yểm trợ đã đổ bộ lên đảo Leyte, lập một đầu cầu để ngay sau đó đánh vào nội địa Philippine. Lính thuỷ Nhật chết tới hàng vạn người. Sau trận này lực lượng hải quân Nhật bị kiệt sức. Từ đấy, không còn sự yểm trợ của hải quân và không quân, lực lượng Nhật trên các đảo Philippine bị suy yếu và lần lượt bị tiêu diệt. Hàng không mẫu hạm hạng nhẹ Princeton đang bốc cháy ở phía đông Luzon, ngày 24 tháng 10 năm 1944. Yamato trúng một quả bom gần tháp pháo phía trước trong Trận biển Sibuyan. Tàu sân bay Nhật Zuikaku(bên trái ở giữa), và có thể là tàu sân bay Zuihō (góc trên bên phải) đang bị máy bay ném bom bổ nhào tấn công trong trận chiến ngoài khơi mũi Engaño. Mỹ thu được thắng lợi lớn trong trận Leyte là do tập trung được một lực lượng áp đảo cả về không quân và thuỷ quân, lại khéo tận dụng sức mạnh của tàu ngầm và máy bay, tập trung đánh vào các tàu chiến lớn của Nhật.
School@net
|