Cong ty Cong Nghe Tin hoc Nha truong http://www.vnschool.net

Trăm năm dạy ứng xử nghề nghiệp ở đại học Y Hà Nội (phần I)
16/09/2011

Trên 100 năm tồn tại, trường Y Đông Dương - nay là đại học Y Hà Nội - có hai cách dạy ứng xử nghề nghiệp cho sinh viên, xuất phát từ hai quan điểm khác nhau.

1- Quan điểm coi nghề y là một nghề nhân đạo trong mọi xã hội. Đó là trị bệnh cứu người, không phân biệt giàu - nghèo, sang – hèn…

2- Quan điểm coi nghề y phục vụ đường lối. Trước kia, thầy thuốc phục vụ vua quan, tư bản, nay họ phục vụ nhân dân, chủ yếu là công-nông-binh.


Hình ảnh của Trường Đại học Y Dược Hà Nội thuở mới được thành lập, năm 1930 tại 19 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm

Phần 1. Về quan điểm nhân đạo của y học

Liệu nghề y có là nghề cổ nhất, do vậy mà sớm nhất có lời thề?

Con người xuất hiện cùng bệnh tật. Từ trước đó, Thượng Đế vạn năng đã hoá thân thành thầy thuốc để cắt xương sườn Adam, đặng tạo thành Eva. Có 2 con người, lập tức có trao đổi. Xã hội tự cấp sẽ tiến tới trao đổi hàng hoá, xuất hiện thị trường. Thời đồ đá, đã có tiền bằng vỏ sò.

Lời thề Hippocrate, trải 2500 năm đến nay đã thay đổi hoàn toàn cho hợp với cơ chế thị trường. Ví dụ, lời thề đọc ở trường Y Đông Dương có câu: Tôi thề chỉ lấy thù lao bằng đúng công sức tôi đã bỏ ra. Nó thể hiện quan hệ công bằng - đặc trưng của một thị trường lành mạnh. Dù thay đổi đến đâu, chung quy lời thề thầy thuốc vẫn là lời thề nghề nghiệp, tuân theo 2 nguyên tắc: a) chỉ gồm những hành vi nghề nghiệp mà thầy thuốc buộc phải làm hoặc buộc phải tránh; b) nó chỉ viện dẫn các bậc tổ nghề mà không viện dẫn các vĩ nhân ngoài nghề. Phần dưới sẽ nói rằng “lời thề” gần đây nhất của trường này không đáng được gọi là lời thề nghề nghiệp vì vi phạm hai nguyên tắc trên.

Trường Y Đông Dương

Năm 1902 người Pháp mở trường Y cho cả xứ Đông Dương, nhưng đặt ở Hà Nội - mà không phải Sài Gòn như dự kiến – vì một mục đích là dùng văn hoá khoa học Âu Tây xoá dần ảnh hưởng của Nho Học đã bén rễ sâu nhất trong xã hội Bắc Kỳ (đề xuất của Tiểu ban tư vấn do tiến sĩ Henaff đứng đầu)

- Tại sao mở trường Y mà không phải trường khác? Vì học xong, sẽ có việc ngay và sẽ gần dân – liên quan tới mục đích nói trên. Xưa nay, dù nghề gì thì mục đích số 1 vẫn là kiếm sống, qua đó mà phục vụ xã hội. Nhưng người Pháp nhận ra, nghề y ở xứ nông nghiệp dễ được người dân tìm đến nhất. Vẫn biết, người bệnh phải trả công, nhưng trong lời thề khi ra trường, có hai nội dung đáng chú ý:

1) Ưu tiên bệnh nặng mà không ưu tiên địa vị xã hội… và:

2) Chữa miễn phí cho người nghèo. Do vậy, thầy thuốc khó mà xa dân. Đã vậy, Quy Chế còn nhắc: khi ra trường “phải làm việc ba năm ở miền núi”.

Vì sao nghề y (và một số nghề khác) phải có lời thề nghề nghiệp?

- Một số nghề dễ chiếm được lòng tin mà người hành nghề có thể lợi dụng để mưu lợi bất chính. Người bệnh tin thầy thuốc tới mức phó thác cả sức khoẻ, sinh mệnh và sẵn sàng phô bày cả thân thể, tâm trạng. Khốn nỗi, pháp luật cho tới nay vẫn chưa đủ trình độ phát hiện những sai phạm do lợi dụng lòng tin của một số nghề. Sự thiếu sót này được khắc phục - nhiều hay ít - bằng lời thề nghề nghiệp. Trong khi đó, nghề kinh doanh không cần thề “không cân điêu”.. vì pháp luật và người tiêu dùng có cách phát hiện sự gian trá đó.

- Do vậy, lời thề sẽ giảm hoặc mất tác dụng nếu niềm tin trong xã hội suy giảm.

- Vài nghề khác cũng có lời thề: Nghề xử án, nghề quân nhân.

Thực tế dạy ứng xử nghề nghiệp trước 1945

Đó là thứ đạo đức phi giai cấp, phi ý thức hệ, với tính nhân đạo chung chung, sau này rất bị phê phán khi chỉnh huấn. Trường Y xưa có nhiều cách dạy theo quan điểm này.

- Đọc Lời Thề

Quan trọng, nhưng chỉ là một tiết mục trong buổi lễ phát bằng ngắn ngủi. Lời thề đã khác xa nguyên bản thời Hippocrate vì đã cách nhau gần 2500 năm.

Sau 1945, trường Y Hà Nội bỏ thủ tục “thề bồi”. Do vậy, đến nay những người vừa rưng rưng lệ, vừa bàn tay trái đặt lên ngực, còn cánh tay phải giơ lên tuyên thệ… không ai còn sống nữa, nhưng một số điều trong lời thề có lẽ vẫn được dân Việt hôm nay tha thiết mong thành hiện thực.

Ví dụ: Tôi xin thề chỉ lấy thù lao bằng đúng công sức mà tôi đã bỏ ra. Nó giúp duy trì lương tâm nghề nghiệp. Nội dung khác: Tôi chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Nó hạn chế cái quan hệ lạnh lùng “tiền trao, cháo múc. Và nữa: Tôi nguyện đem mọi năng lực và phương tiện trong tay làm những đều có ích nhất cho bệnh nhân. Nó thể hiện trách nhiệm đặc trưng của nghề…

Không phải vị thầy thuốc tân khoa nào cũng nhớ suốt đời những nội dung quan trọng nhất của lời thề. Cụ Vũ Công Hoè ra trường 1936 nhưng gần nửa thế kỷ sau được hỏi lại, thì… “chỉ còn nhớ láng máng”. Có thể do cụ Hoè cả đời không trực tiếp chữa bệnh, mà chỉ cặm cụi nghiên cứu trên các tử thi. Tuy nhiên, cụ lại rất nhớ thầy Lucas Championnière đã giảng rất hay về cách ứng xử hợp đạo đức. Vị thầy này cứ đặt ra những tình huống éo le và hỏi học trò: Nếu gặp trường hợp như vậy, các anh sẽ ứng xử thế nào… Sinh viên phải vận dụng lý thuyết đã học (môn Quy Chế Hành Nghề) để trả lời. Hoá ra, cách dạy case study hiện nay chưa phải sáng tạo gì ghê gớm.

Như vậy, ngoài đọc lời thề (tới tận cuối khoá học mới có dịp thực hiện) thì vấn đề là hàng ngày sinh viên đã học gì và các thầy đã nêu gương thường nhật ra sao...

- Điều nay dễ hiểu lầm

Trường không có môn lý thuyết “Đạo Đức”, kể cả “Đạo Đức Y Học”. Đạo đức nghề nghiệp chỉ thể hiện ở cách ứng xử, mà không ở chỗ thuộc làu làu lý thuyết. Không có vị đạo cao đức trọng nào dùng cách nói thao thao: “anh phải thế này”, “anh nên thế khác”… mà sinh viên trở thành nhà đạo đức. Tuy nhiên, có một môn được dạy: môn Quy Chế Hành Nghề (Deontology), vừa lý thuyết, vừa thực hành. Các cựu sinh viên cho biết: Chỉ các GS kỳ cựu nhất mới được cử ra “kiêm” dạy môn này, ví dụ GS Sollier (chuyên khoa Tai-Mũi-Họng); nhưng GS Vũ Công Hoè lại nói, từng học môn này từ vị thầy khá trẻ: Lucas Championnière. Đó là môn dạy hành xử sao cho phù hợp quy chế, pháp luật và đạo đức thầy thuốc.

- Những “người muôn năm cũ”.

Trường Y Đông Dương mở trước khi có bậc trung học, thí sinh trẻ nhất được tuyển mới có 15 tuổi (ví dụ, Phạm Đình Minh, sinh 1887, ở số 100 phố Hàng Gai, hoặc Trần Đình Huy, sinh cùng năm, số 41 Hàng Bạc) chưa có đủ kiến thức cơ bản cần thiết. Họ phải bổ túc Toán, Hoá, Sinh, Pháp văn… Ra trường, với danh hiệu “y sĩ Đông Dương”, hưởng lương như cao đẳng, phụ trách y tế cả một tỉnh và dứt khoát phải làm việc 3 năm ở miền núi (Trần Đình Đệ lên Hoà Bình; Đỗ Xuân Hợp lên Yên Bái, Martin lên Phú Thọ…). Phải 30 năm sau mới có đủ tú tài để trường này chuyển sang đào tạo bác sĩ.

Thập niên 50 của thế kỷ trước, y sỹ Đông Dương của những khoá muộn nhất (ra trường từ 1922 tới 1930), chỉ còn sót lại 41 vị. Thời xa lắc đó, trong lễ tốt nghiệp nhiều vị còn mặc quốc phục (áo dài, khăn xếp) dáng dấp như những cụ lang.

Điển hình là các cụ Vũ Đình Tụng (bộ trưởng Thương Binh), Nguyễn Kính Chi (thứ trưởng Y Tế), Trần Văn Lai (Đốc Lý Hà Nội), Nguyễn Đức Khởi (giám đốc Y tế Hà Nội), Hoàng Sử (thầy thuốc hoàng gia, sau là chủ nhiệm Bộ Môn X-quang), Đỗ Xuân Hợp (chủ nhiệm bộ môn Giải Phẫu)… Sinh viên Lê Văn Khải khi thực tập ở tỉnh Hoà Bình, đã mô tả cụ Trần Đình Đệ có phong cách như nhân vật Lỗ Túc (thời Tam Quốc).

Ngạc nhiên là năm 1955 khi một số vị y sỹ Đông Dương về trường dự sát hạch để được công nhận bác sĩ, họ vẫn có những nét chung rất dễ nhận ra, cứ như đúc từ cùng một cái “khuôn đạo đức” vậy. Đó là tác phong đĩnh đạc; tính cách đôn hậu, nói năng khúc chiết, ôn tồn…

- Tấm gương từ những ông thầy

Các thầy Pháp sang Việt Nam đều hoàn toàn tự nguyện, vì:

1) vẫn hưởng lương “chính quốc”, lại thêm phụ cấp 100%; và do vậy lương họ cao gấp 4 hay 6 lần lương một bác sĩ Việt Nam (ăn lương “thuộc địa”).

2) bệnh tật nhiệt đới phong phú, rất sẵn đề tài để nghiên cứu.

Dễ hiểu, họ không cần khám tư, không ham làm quan, mà chỉ hăm hở nghiên cứu. Về sau, nước Pháp đặt thêm tấm bằng “trên tiến sĩ” (ta dịch là “thạc sĩ y khoa”) thì rất nhiều thầy trường này đã kịp có đủ công trình đáp ứng. Tất nhiên, điều này có lợi cho cá nhân (công danh, sự nghiệp). Nhưng việc áp dụng thành tựu nghiên cứu của họ vào thực tiễn thì dân ta hưởng tất. Không thầy nào tỏ ra kỳ thị chủng tộc, khi thấy sinh viên tôn trọng và biết ơn mình, xuất phát từ một truyền thống lâu đời chứ không phải chỉ do xã giao. Có những thầy lấy vợ Việt Nam, như Le Roy des Barres, dạy từ 1902, sau này là ân nhân của BS Hồ Đắc Di. Có lẽ công ơn lớn nhất của họ là đào tạo ra thế hệ danh nhân y học hiện đại cho Việt Nam: Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp, Đặng Văn Chung… Đi trên phố Tôn Thất Tùng, mấy ai nhớ tới các thầy của vị danh nhân này?

Giáo dục Đông Dương trước 1945 đương nhiên theo mô hình Pháp. Học 3 năm đại học sẽ thành cứ nhân. Học 6 năm, có bảo vệ luận án, được cấp bằng tiến sĩ (ngành y gọi là bác sĩ). Bác sĩ Đặng Văn Ngữ lĩnh 100 đ/tháng, trong khi cử nhân Đào Văn Tiến lĩnh 60 đồng (tương đương 10 và 6 lạng vàng). Các thầy Pháp đều phải có bằng tiến sĩ – bác sĩ - do đại học Y Paris cấp. Năm 1902, trường có 6 tiến sĩ dạy cho 15 sinh viên. Tỷ lệ thầy - trò này đến nay vẫn là quá lý tưởng.

Những sự thật nói trên có thời được sinh viên trường Y Hà Nội “vận dụng” trong những đợt chỉnh huấn, để lên án các ông thầy người Pháp là “bọn” bóc lột (lương cao quá), vô chính trị (coi “chuyên” hơn “hồng”) và cá nhân chủ nghĩa (chỉ ham bằng cấp)…

- Vài cá tính của các GS Pháp thập niên 30 được sinh viên nhớ lâu

Lucas Championnière có ông nội sáng lập một tạp chí y khoa, có cha là viện sỹ, bản thân ông tự nguyện sang Đông Dương để đào tạo, mà không vì thu nhập. Do vậy, rất được sinh viên yêu kính về phẩm chất và khâm phục về chuyên môn. Ông dạy Ngoại Khoa, và dạy cả môn Quy Chế Hành Nghề. Ông mất ở Việt Nam vì một bệnh nhiệt đới, được sinh viên thương xót tiễn đưa về tận Hải Phòng (thi hài đưa về Pháp). GS Hoè coi ông này là Yersin thứ hai của trường.

Henri Coppin rất giỏi về các bệnh lây, nhưng cũng mất sớm vì lây bệnh.

Naudin thương cả sinh viên lẫn bệnh nhân. Hồi đó, đồng bào ta đói ăn, rét mặc (tuy không có bệnh) nhưng vẫn được sinh viên cho nhập viện để được ăn mỗi ngày 2 bữa cơm đạm bạc, nhưng miễn phí. Khi thầy khám, không phát hiện bệnh gì, sinh viên đành thú thật: cho vào viện để… cứu đói. Thầy liền đọc to câu danh ngôn y học: Kết luận một con người hoàn toàn không có bệnh là điều khó nhất của y học (ý nói, ai cũng có bệnh). Các anh theo dõi, khám cho kỹ, thế nào cũng tìm ra một tên bệnh để ghi vào bệnh án cho “hợp lệ”.

Sollier rất hay gắt với sinh viên và bệnh nhân, kể cả khi vợ ông tới khám. Ông ghét tác phong luộm thuộm của sinh viên và ý thức phòng bệnh kém của người bệnh. Tuy nhiên, với sự trong sáng và tính tình thẳng “ruột ngựa” ông vẫn được cử dạy môn Quy Tắc Hành Nghề. Gia đình ông gồm bà vợ và 5 cô con gái nổi tiếng là ngoan đạo, rất chăm đi lễ nhà thờ.

Polidori dạy môn Nhi Khoa. Khi khám bệnh ông không bắt bà mẹ ra ngoài (vì đứa trẻ khóc rất dữ trước “ông Tây”) mà cứ để bà ta bế con, dù điều này trái quy chế. Ông khám bệnh rất tỉ mỉ và phát hiện nhiều triệu trứng ẩn giấu khiến những sinh viên khám trước phát hoảng…

Người viết: Nguyễn Ngọc Lanh, nguyên GS đại học Y Hà Nội; NGND





URL của bài viết này::http://www.vnschool.net/modules.php?name=News&file=article&sid=5580

© Cong ty Cong Nghe Tin hoc Nha truong contact: sales@schoolnet.vn