Lịch sử
Các phát hiện khảo cổ học cho thấy rằng những người Châu á đầu tiên đến Nam mỹ khoảng 20.000 năm trước đây. Họ chủ yếu sinh sống bằng săn bắn và hái lượm. Sự phát triển của nông nghiệp trong khoảng năm 2600 trước Công nguyên đã tạo điều kiện cho sự phát triển rất nhanh của các nền văn hóa ở nhiều vùng của Nam mỹ. Nền văn hoá phát triển mạnh nhất xuất hiện ở vùng núi Andes nằm trong một vùng rộng tới 2.600.000 km2 với khoảng 6.000.000 dân.
Văn hoá
Đời sống văn hoá của Nam mỹ dựa chủ yếu vào sự kết hợp của các giá trị của người Iberia, của người da đỏ và người Phi. Sự ảnh hưởng của văn hóa người da đỏ đặc biệt đậm nét ở vùng Andes và lòng chảo sông Amazon; ảnh hưởng của văn hoá người Phi thể hiện mạnh nhất ở Brazil.
Đất đai
Lục địa Nam mỹ có thể chia thành ba vùng địa hình là dải núi trẻ Andes ở phía tây; thềm lục địa cổ Guiana và Brazilia ở phía đông và phía bắc miền trung; lòng chảo trầm tích ở ngoại vi thềm lục địa cổ. Vùng núi Andes trải rộng theo hướng bắc nam là 8.800 km và là dãy núi có độ cao trung bình lớn thứ hai sau dãy núi Himalayas của Châu á. Núi Andes ở Argentina
Vùng thềm lục địa ở phía đông, được vùng lòng chảo con sông Amazon chia làm hai phần là cao nguyên Guiana và cao nguyên Brazil, có những nền đá cổ nhất ở lục địa Nam mỹ. Vùng cao nguyên Guiana gồm hai quốc gia là Venezuela và Guyana. Cao nguyên Brazilia, rộng 1.502.200 km2 là phần phía đông và phía nam đất nước Brazil. Từ phía nam đến miền trung lục địa có rất nhiều vùng đồng bằng và lòng chảo ở ngoại vi thềm đá cổ ngăn cách vùng cao nguyên và vùng núi Andes. Lớn nhất trong số các vùng đồng bằng đó là lòng chảo sông Amazon rộng 7.050.000 km2. Vùng trầm tích Pampas ở phía đông Argentina do con sông Andes và những cơn bão bụi tạo nên rộng khoảng 777.000 km2, đất đai ở đây rất màu mỡ và là một trong những vùng đất nông nghiệp màu mỡ nhất Nam mỹ.
Con sông Amazon ở phía bắc lục địa cung cấp nước tưới cho khoảng 1/3 diện tích lục địa. Ba hệ thống sông lớn khác trong lục địa là hệ thống sông Orinoco, Parano-Paraguay-Rio de la Plata và Sao Francisco đều đổ nước vào Đại Tây Dương. Hầu hết các hồ nước lớn ở Nam mỹ đều là các hồ nước trên núi trong vùng núi Andes hoặc dọc chân núi. Hồ Titicaca, nằm ở độ cao 3.810 m giữa Peru và Bolivia là cái hồ nước ngọt cao nhất thế giới.
Nam mỹ gồm bốn vùng khí hậu khác nhau là nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới và hàn đới. Vùng khí hậu nhiệt đới lại được chia thành hai kiểu nhỏ là rừng mưa nhiệt đới nằm ở bờ biển phía đông Colombia trong vùng lòng chảo sông Amazon, trên bờ biển Guianas và một số vùng bên bờ biển Brazil; và vùng thảo nguyên nhiệt đới khô ở các vùng khô bên ngoài các dải rừng mưa nhiệt đới ở lòng chảo sông Orinoco, trên cao nguyên Brazilia và một số vùng ở miền tây Ecuador. Khí hậu cận nhiệt đới là một số vùng ở Chile, Argentina, Paraguay và miền nam Brazil. Các sông Amazon chảy qua Brazil
Khí hậu ôn đới chủ yếu là ở vùng Patagonia phía đông dãy núi Andes, một số vùng ven biển Thái Bình Dương và miền đông bắc Brazil. Khí hậu hàn đới là một số vùng ở cận nam Argentina, Chile và vùng núi cao Andes. Hầu hết Nam mỹ đều có lượng mưa lớn từ 1.016 đến 2.032 mm một năm và đặc biệt là mưa rào ở vùng lòng chảo sông Amazon.
Khoảng 7% diện tích đất ở nam mỹ có thể canh tác được trong đó phần lớn được giành cho trồng lúa mỳ, ngô và gạo. Khoảng 1/4 diện tích lục địa là đông cỏ. Khoảng một nửa diện tích lục địa có rừng bao phủ, đặc biệt là rừng râm Amazon. trong rừng rậm Amazon có khoảng 2.500 loài thực vật sinh sống. Khoảng 1/4 tât cả các loài động vật được thế giới biết đến sống ở các khu rừng mưa, cao nguyên, sông ngòi và đầm lầy của Nam mỹ.
Người dân
Bốn dân tộc lớn nhất sống ở nam mỹ hiện nay là người da đỏ Châu mỹ (những người sống ở đây từ khi các nền văn minh tiền Columbia xuất hiện); người Iberia (người gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha xâm lược và cai trị vùng này cho đến đầu thế kỷ 19); người Châu phi (được thực dân Châu âu nhập về làm nô lệ) và những người di cư đến đây sau thời kỳ độc lập đặc biệt là người Đức, Nam âu, Leban, Nam á và Nhật bản.
Người dân Nam mỹ tập trung ở các vùng bờ biển còn sâu trong lục địa lại khá hiếm. Các vùng bờ biển đã được đô thị hoá rất cao trong thế kỷ 20. Tại Uruguay, Argentina, Chile và Venezuela, khoảng hơn 80% dân số sống ở đô thị và khoảng 35 triệu người sống ở ba vùng đô thị thủ đo là Rio de Janeiro, Sao Paulo và Buenos Aires.
Kinh tế
Riêng Brazil chiếm khoảng 3/5 tổng giá trị sản lượng của Nam mỹ và là một thế lực kinh tế rất mạnh ở châu lục, sau đó là Argentina, Venezuela, Colombia và Chile. Quá trỉnh công nghiệp hóa đã diễn ra rất sau rộng ở Brazil, Argentina và Uruguay. Phân phối thu nhập ở Nam mỹ có xu hướng bất bình đẳng giữa một số rất đông người nghèo với một số ít người giàu.
Nam mỹ có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên quan trọng. Trữ lượng sắt ở Brazil và Venezuela chiếm khoảng 1/8 tổng trữ lượng của thế giới. Chile và Peru chiếm 1/4 tổng trữ lượng đồng của thế giới còn rất nhiều quặng thiếc với số lượng lớn xuất hiện ở Bolivia và phía đông lòng chảo sông Amazon của Brazil.
Nông nghiệp thu hút khoảng 1/3 toàn bộ lực lượng lao động của Nam mỹ. Dù cho Nam mỹ luôn là một nhà sản xuất lương thực hàng đầu nhưng năng suất lao động ở đây lại khá thấp và sử dung đất không hiệu quả. Nhiều quố gia không đủ đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước hoặc chỉ đáp ứng đủ nhu cầu mà không có thặng dư cho xuất khẩu.
Khai khoáng, chủ yếu phục vụ xuất khẩu cũng rất quan trọng đới với Nam mỹ. Chile sản xuất 1/5 lượng đồng của thế giới; Brazil cung cấp 1/6 lượng thiếc và 1/7 lượng quặng sắt cho thế giới. Brazil còn là nước đi đầu về sản xuất vàng, quặng Man gan và thép còn Peru là nhà sản xuất hàng đầu về kẽm, đồng và chì.
Tại hầu hết các nước Nam mỹ, công nghiệp đều kém phát triển và chủ yếu là công nghiệp nhẹ hoặc chế biến nghuyên liệu thô cho xuất khẩu, chỉ có hai quốc gia Argentina và Brazil là đã được công nghiệp hóa với ngành công nghiệp đa dạng gồm sản xuất sắt thép, lọc dầu, hoá dầu và hàng tiêu dùng như ôtô. Tên quốc gia,vùng | Diện tích (km²) | Dân số (1 July 2002 est.) | Mật độ dân cư (trên km²) | Thủ đô, thủ phủ | Argentina | 2.766.890 | 39.921.833 | 14.3 | Buenos Aires | Bolivia | 1.098.580 | 8.989.046 | 8.1 | La Paz, Sucre | Brasil | 8.511.965 | 188.078.227 | 21.9 | Brasília | Chile | 756.950 | 16.134.219 | 21.1 | Santiago | Colombia | 1.138.910 | 43.593.035 | 37.7 | Bogotá | Ecuador | 283.560 | 13.547.510 | 47.1 | Quito | Quần đảo Falkland (Anh Quốc) | 12.173 | 2.967 | 0.24 | Stanley | Guyane thuộc Pháp (Pháp) | 91.000 | 199.509 | 2.1 | Cayenne | Guyana | 214.970 | 767.245 | 3.6 | Georgetown | Paraguay | 406.750 | 6.506.464 | 15.6 | Asunción | Peru | 1.285.220 | 28.302.603 | 21.7 | Lima | Quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich (Anh) | 3.093 | — | — | Grytviken | Suriname | 163.270 | 439.117 | 2.7 | Paramaribo | Uruguay | 176.220 | 3.431.932 | 19.4 | Montevideo | Venezuela | 912.050 | 25.730.435 | 27.8 | Caracas | Caribe | Aruba (Hà Lan) | 193 | 71.891 | 370.8 | Oranjestad | Antille thuộc Hà Lan | 732 | 221.736 | 221.3 | Willemstad | Trinidad và Tobago | 5.128 | 1.065.842 | 212.3 | Port of Spain | Trung Mỹ: | Panama | 25.347 | 540.433 | 21.3 | Panama City | Tổng cộng | 17.853.007 | 377.544.044 (2006) | | |
schoolnet@
|