68. Lý-trưởng làng ta
Lý trưởng là người của dân cử ra làm việc làng. Trong làng có việc gì ra đến quan, thì lý-trưởng đi thay mặt dân. Quan trên có lệnh gì truyền về làng, cũng trách cứ ở lý-trưởng. | Xem tiếp |
67. Ở sạch thì không hay đau mắt
Một hôm cậu thằng Bính đến chơi, đang ngồi nói chuyện, thì thằng Bính chạy ra nghịch đất, rồi lấy tay giụi vào mắt. Bà mẹ trông thấy mắng rằng: “Tay mày bẩn thế mà giụi (chụi) vào mắt. Mày lại muốn mù như thằng Phác hay sao? Đi rửa ngay đi !” Bính nghe lời mẹ, vội vàng đi múc nước rửa. | Xem tiếp |
66. Con chuột
Con chuột, mình nhỏ, mõm nhỏ, mắt to, tai rộng, đuôi dài mà thót (nhọn). Lông nó ngắn và mềm. Chuột ở đâu cũng có, trong nhà, ngoài đồng, vườn-tược, rừng-rú. | Xem tiếp |
65. Lũy Đồng-hới
Lũy đồng-hới là cái lũy chúa Nguyễn đắp lên để giữ bờ cõi cho quân Trịnh ở ngoài Bắc khỏi tràn vào. Lũy ấy bắt đầu từ cửa sông Nhựt-lệ đến chân núi Đầu-mâu, cao gần 6 thước tây, dài 12 ki-lô-mét. | Xem tiếp |
64. Chim sơn-ca (chuyện-chuyện)
Chim sơn-ca là một thứ chim ở ngoài đồng, mình và lông gần giống như chim sẻ, nhưng mỏ dài và chân nhỏ hơn.
Chim sơn-ca là giống chim hay hót, nhất là về mùa xuân. Thường thường nó vừa bay, vừa hót, càng bay cao, giọng càng véo-von. Tiếng hót to, có khi nó bay thật cao, trông không thấy, mà vẫn nghe tiếng hót. | Xem tiếp |
63. Cái cò, cái vạc, cái nông.
Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày giậm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không, không , tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi.
Chẳng tin, thì ông đi đôi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.
| Xem tiếp |
61. Ông tổ sáng nghiệp nhà Nguyễn: ông Ngyễn-Hoàng
Ông Nguyễn-Hoàng là con thứ hai ông Nguyễn-Kim, làm trấn-thủ đất Thuận-hóa.
Lúc ông đến nhậm-chức, dân ở đó mang dưng ông bảy chum nước. Ông lấy làm lạ; người cậu ông bảo ông rằng: “Thế là lòng trời = bảo cho biết đó: đây là điềm tướng-công mở ra nước sau này đây!” Vì chữ “nước” vừa có nghĩa là “nước uống” vừa có nghĩa là “đất nước”. | Xem tiếp |
60. Một cái thư
Tôi viết thư cho anh tôi ở Hải-dương. Tôi lấy một tờ giấy trắng. Trên dòng đầu, tôi đề ngày tháng, dưới tôi kể những tin-tức ở nhà cho anh tôi biết. Sau tôi chúc anh tôi mọi sự bình-yên, rồi tôi gấp lại, bỏ vào phong-bì trên dán cái tem năm xu. | Xem tiếp |
59. Ăn mặc phải giữ-gìn
Cùng một ngày, bà mẹ may cho anh Giáp và anh Ất, mỗi người một cái áo lương. Thế mà chưa được bao lâu, áo của anh Ất đã sờn rách năm bảy chỗ, còn áo của anh Giáp vẫn nguyên lành như mới. | Xem tiếp |
58. Trang-sức
Cô Năm chẳng học-hành, chẳng may vá gì. Cả ngày chỉ cái gương, cái lược, chải-chuốt, vuốt-ve, sắm sửa trong mình cho đẹp. | Xem tiếp |
57. Ông Nguyễn- Kim
Khi nhà Mạc đã cướp ngôi vua rồi, thì ông Nguyễn-Kim là người trung-thành với nhà Lê, chạy trốn sang Lào. Người Lào giúp ông lương và tiền để ông đánh nhà Mạc phò nhà Lê. Ông lập ông hoàng-tử Ninh là dòng dõi nhà Lê lên làm vua, rồi chiêu-tập những người còn có bụng giúp nhà Lê. | Xem tiếp |
56. Đứa bé và con mèo
Cô Mão thơ-thẩn ngồi chơi một mình ở trong vườn. Cô thấy con mèo lượn qua, cô gọi, cô vẫy lại. Mèo đến lẩnn-quẩn ở bên cạnh, cái đuôi ve-vẩy như vui mừng, cái đầu ngẩng lên như chào hỏi, miệng thì kêu “meo meo” ra dáng bằng lòng lắm. | Xem tiếp |
55. Cơn mưa
Trời đương nóng nực, lá cây ngọn cỏ im phăng-phắc, bỗng có cơn gió mát thổi. Ngẩng lên trông thấy về phía đông-nam mây kéo đen-nghịt một góc trời. Ai cũng bảo rằng sắp có trận mưa to. | Xem tiếp |
54. Mưa dầm gió bấc
Về mùa đông, gặp khi mưa dầm gió bấc, thì phong cảnh nhà-quê trông thật tiêu điều buồn-bã. Ngoài đồng thì nước giá, thỉnh-thoảng mới thấy lác-đác có người cày hay bừa. | Xem tiếp |
53. Chùa làng tôi
Chùa làng tôi lợp bằng mái ngói, đằng trước có sân, bên cạnh có ao, xung-quanh có vườn. Ở trước sân có tam-quan, trên là gác chuông, dưới là cửa để ra vào. Trong chùa, trên bệ cao, thì có nhiều tượng phật bằng gỗ, sơn son thiếp vàng. Sau chùa thì có nhà tổ và chỗ các sư ở. | Xem tiếp |
52. Làm người phải học
Ngọc kia chẳng giũa, chẳng mài,
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.
Con người ta có khác gì,
Học-hành quí giá, ngu-si hư đời.
Những anh mít-đặc thôi thời,
Ai còn mua chuộc, đón mời làm chỉ. | Xem tiếp |
51. Học thuộc lòng
Thằng Bút học bài ngụ-ngôn. Nó đọc cả bài hai ba lượt, rất có ý và nhận nghĩa cho thật hiểu.
Nó đọc câu đầu, rồi không nhìn vào sách mà đọc lại. Nó đọc thong-thả, rõ-ràng, không sai chút nào. | Xem tiếp |
50. Các khoa thi
Ngày xưa, học-trò chữ nho đi thi để có chân khoa-mục và ra làm quan. Thì có hai khoa: thi-hương và thi-hội. | Xem tiếp |
49. Học-trò biết ơn thầy
Ông Carnot xưa là một ông quan to nước pháp, một hôm nhân lúc rảnh việc, về chơi quê nhà. Khi ông đi ngang qua tràng học ở làng, trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé, bấy giờ đã đầu tóc bạc phơ, đang ngồi trong lớp học dạy học. | Xem tiếp |
|
|