Ở đâu cũng có tiếng địa phương. Bắc Giang gọi đứng lên là Trỗi, gọi cái thừng là Trạc. Miền Trung có Mô, Tê, Răng, Rứa là Đâu, Đây, Làm sao, Như thế. Huế có Chừ là bây giờ. Nam bộ gọi áo quan là Hòm, gọi hoa là bông (nhưng áo hoa và áo bông thì quả là lẫn lộn đáng tiếc). Người ốm là gầy, người bệnh là ốm…
Trong khẩu ngữ, pha tiếng địa phương, không hại gì lắm, người nghe rồi cũng hiểu ra, nhất là lâu nay thông thường phát triển, vùng nào cũng có người nơi khác đến định cư, sinh sống. Duy nhất khi viết, chúng ta cần phân biệt, đâu là tiếng là chữ đã phổ thông phổ biến để tránh những địa phương quá cá biệt, làm người đọc phải suy đoán, làm đứt mất mạch suy nghĩ hoặc hưởng thụ. Ví dụ miền Nam gọi tất cả những thứ che đầu là Nón mà không phân biệt Nón chóp, nói quai thao, nói da, nón lá, nón lưỡi trai… Miền Bắc gọi là Mũ khác hẳng Nón.
Hàm Mặc Tử sống chết ở Qui Nhơn, miền Trung, chưa hề ra Hà Nội lần nào, nhưng thơ ông trong sáng, không có tiếng địa phương nào. Trong cuốn “Cá Bống Mú” Đoàn Giỏi, nhà văn quá cố dùng quá nhiều tiếng địa phương, may sao đến “Đất rừng phương Nam”, nó lại được hạn chế.
Thực ra, công bằng mà nói, không có tiếng địa phương nào thô lậu cả, mà chỉ là thói quen, như ngôn ngữ vốn sinh ra trong ngẫu nhiên từ ngàn đời, từ khởi thủy, ví dụ nếu người đầu tiên gọi động tác nhai và nuốt không phải là Ăn mà là Mặc thì ngày nay ta cũng phải theo đó thôi.
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta, chỉ được làm phong phú thêm mà không được làm cho nó tối tăm đi hoặc nghèo nàn đi. Nói và viết là để thông tin, nhiều người hiểu mới là tốt nhất.
School@net
|